Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe
Đồi Tepeyac, Thành phố México, Mexico.
Số lượng xem: 1089

Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe – Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe (Basilica of Our Lady of Guadalupe (Tây Ban Nha: Basílica de Nuestra Señora de Guadalupe) trên đồi Tepeyac, nằm ở phía bắc của Mexico City.

 

 

Theo dòng lịch sử, vào năm 1531, Đức Mẹ hiện ra cho một giáo dân da đỏ – Juan Diego, và tỏ ước muốn xây một nhà nguyện kính Đức Mẹ. Nhà nguyện đầu tiên được xây trên đồi Tepeyac nơi Đức Mẹ ra ngày nay gọi là Nhà nguyện Cerrito.

Một thánh đường lớn hơn được xây dựng dưới chân đồi để đáp ứng nhu cầu cho số người hành hương đông đảo ngày càng tăng. Thánh đường này sau gần 200 năm xây cất, hoàn tất năm 1709 nhưng sau đó nền móng bị lún do cấu tạo địa chất. Do đó người ta đã xây ngôi thánh đường hiện nay và trở thành trung tâm hành hương số 1 của châu Mỹ, số 2 của thế giới, sau Đền Thánh Phêrô ở Vatican.

 

Thánh đường năm 1928

 

Riêng ngôi Thánh Đường mới mỗi ngày có thánh lễ từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối tại bàn thờ chính, phía trên có treo bức ảnh Đức Mẹ Guadalupe. Với thiết kế vòng tròn có đường kính 100 mét, Thánh Đường này có chổ ngồi cho 10 ngàn người. Khi cần thiết, có thể chứa đến 50 ngàn người. Bất kỳ ở nơi nào trong phạm vi nhà thờ, mọi người đều nhìn thấy ảnh Đức Mẹ treo phía trên bàn thờ chính

Ở tầng trên có 9 bàn thờ phụ, có thể dâng lễ riêng biệt hay cùng đồng tế với bàn thờ chính. Trên bàn thờ lúc nào cũng có rất nhiều hoa tươi được các nhân viên phụng vụ thay chăm sóc

Chung quanh Thánh Đường có tất cả 7 cửa tượng trưng cho 7 cổng được diễn tả cảnh thành thánh Giêrusalem trên Trời trong Tân Ước. Bên ngoài lúc nào cũng có du khách hay người hành hương đến từ các nơi trong đất nước Mexico hay từ các quốc gia khác.

 

 

Từ bên ngoài, Đền thờ trông giống như một túp lều tròn trong nơi sa mạc, để kính nhớ lều tạm ông Môsê dựng dưới chân núi Sinai, và được bao phủ bằng những miếng đồng xanh đậm (theo màu áo Đức Trinh nữ). Bên trong nhà thờ được bao phủ bằng gỗ thông kỵ hỏa do Giáo Hội Công Giáo Canada tặng gồm 6,000 mét vuông, nền nhà được lát bằng đá cẩm thạch Mexico và trong cây cột trung tâm, bao phủ bằng những miếng ván gỗ tùng được che trong những tấm lá vàng, có để một mảnh áo của Juan Diego với hình Đức Bà.

 

 

 

Đoạn đường lên đến đỉnh đồi Tepeyac là các bậc thang rộng rãi tấp nập người qua lại. Có người đi lên những bậc thang này bằng đầu gối. Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe cũng là đền thờ quốc gia của Mexico và cũng là một trong những biểu tượng của đất nước này. Để có thể chiêm nghiệm được phép lạ Đức Mẹ đã ban cho con người và vùng đất này, dưới đây là những tài liệu và nhân chứng nói về sự kiện này.

 

 

Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha), nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng. Nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với Giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh.

 

 

Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng 12 đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico. Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình. Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của Giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải.

Tấm hình này hiện nay vẫn còn được trưng bày tại Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, một trong những điểm hành hương thu hút nhiều người nhất trong thế giới Công giáo. Hình ảnh này cũng phổ biến trong văn hóa Mê xi cô với tên gọi: Nữ Vương Mexico. Năm 1910, Giáo hoàng Piô XI công bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh và sau đó của Philippin vào năm 1935. Năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố Đức Maria là Bổn mạng của toàn châu Mỹ, Nữ vương châu Mỹ La Tinh, và người bảo vệ cho những trẻ em không được sinh ra.

 

 

Trong tài liệu đầu tiên viết về cuộc hiện ra, cuốn Mopohua Nican, viết bằng ngôn ngữ Nahuatl vào khoảng năm 1556, Đức Maria nói với Juan Bernardino, chú của Juan Diego, rằng hình ảnh trên tấm áo choàng Tilma được gọi bằng cái tên: "Đức Trinh Nữ hoàn hảo, Thánh Maria Guadalupe".

Tuy nhiên, giữa các học giả hiện nay chưa đồng thuận về tên "Guadalupe" được gán cho hình ảnh này. Các ý kiến khác nhau có thể được nhóm lại thành hai quan điểm chính. Quan điểm đầu tiên cho rằng đã có sự hiểu lầm giữa tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nahuatl. Quan điểm thứ hai cho rằng tên gọi Tây Ban Nha "Guadalupe", có chung nguồn gốc với tên gọi Đức Maria Guadalupe vùng Extremadura.

Quan điểm đầu tiên về nguồn gốc Nahuatl của tên gọi này là của Luis Becerra Tanco. Vào năm 1675, trong cuốn Felicidad de Mexico của mình, Becerra Tanco đã đưa ra ý kiến: Juan Bernardino và Juan Diego sẽ không thể hiểu được tên Guadalupe vì hai phụ âm "d" và "g" không tồn tại trong ngôn ngữ Nahuatl. Ông đã đưa ra hai tên bằng tiếng Nahuatl được phát âm giống như "Guadalupe " là: Tecuatlanopeuh [tek ʷ at͡ɬa'nopeʍ"], "người được sinh ra từ tảng đá", và Tecuantlaxopeuh tek ʷ ant͡ɬa'ʃopeʍ, "người xua đuổi những kẻ dữ khỏi chúng ta".

Nó cũng đưa ra gợi ý rằng cái tên Tây Ban Nha này là sự thuật lại một thuật ngữ trong tiếng Nahuatl, Coātlaxopeuh [koa ː t͡ɬa'ʃopeʍ], có nghĩa là "người đập đầu con rắn" và nó có thể được đề cập đến thần rắn lông vũ Quetzacoatl.

 

 

Những người ủng hộ nguồn gốc tiếng Tây Ban Nha của tên gọi đưa ra lập luận rằng:

- Juan Diego và Juan Bernardino đã quen với tiếng Tây Ban Nha có hai phụ âm "g" và "d" kể từ khi lãnh nhận phép rửa tội mà trong tên của họ có cùng những phụ âm này

- Không có một tài liệu nào đưa ra tên gọi khác của Đức Trinh Nữ (ngoài cái tên Guadalupe) trong khoảng thời gian gần 144 năm giữa lần hiện ra vào năm 1531 và khi Becerra Tanco viết cuốn sách của mình năm 1675, cho thấy tên Tây Ban Nha "Guadalupe" là chính xác.

 

 

- Các tài liệu của các tác giả người Tây Ban Nha hiện nay và của dòng thánh Phanxicô chứng tỏ rằng việc thay một cái tên Tây Ban Nha cho một cái tên bản địa, chẳng hạn như "Tepeaca" hoặc "Tepeaquilla" sẽ không có nghĩa nếu dùng cho 1 tên có nguồn gốc Nahuatl. Điều này cho thấy tên "Guadalupe" có nguồn gốc Tây Ban Nha là đúng.

- Sau cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha kéo dài từ năm 1519-21, một đền thờ nữ thần Tonantzin tại đồi Tepeyac bên ngoài Thành phố Mexico đã bị phá hủy và một nhà nguyện dành riêng cho Đức Trinh Nữ được xây dựng nay tại đó. Những người da đỏ mới cải đạo theo Công giáo ở xa vẫn tiếp tục đến đó hành lễ và thực hiện các nghi thức thờ phượng của mình. Tuy nhiên không chắc chắn họ có gọi tên Maria giống như tên nữ thần Tonantzin hay không.

- Một ghi chép đầu tiên nhắc đến sự tồn tại của bức vẽ là vào năm 1556, khi Tổng Giám mục Alonso de Montufar, dòng Ða Minh, giảng một bài khen ngợi lòng sùng kính Đức Mẹ Guadalupe, bày tỏ sự kính trọng với bức tranh được vẽ trong nhà nguyện tại Tepeyac, nơi phép lạ mới xảy ra. Vài ngày sau đó ông nhận được văn thư trả lời của Francisco de Bustamante, người đứng đầu các tu sĩ dòng Phanxicô và là người trông coi nhà nguyện Tepeyac, ông này bày tỏ thái độ không đồng tình trước vị Phó vương về việc Tổng Giám mục cổ vũ người dân bản địa mê tín dị đoan khi tôn thờ một bức tranh được vẽ bởi một họa sĩ người bản địa tên là Marcos Cipac de Aquino:

- Lòng sùng kính đã được cổ vũ trong một nhà nguyện dành riêng cho Đức Mẹ, được gọi là Guadalupe, trong thành phố này là rất có hại cho người dân địa phương, bởi vì nó làm cho họ tin rằng hình ảnh này được vẽ bởi người da đỏ Marcos là trong một trường hợp thần kỳ.

- Ngày hôm sau, Tổng Giám mục Montufar mở một cuộc điều tra. Các tu sĩ Phanxicô nhắc lại tuyên bố của mình rằng hình ảnh khuyến khích thờ phượng ngẫu tượng và mê tín dị đoan, và làm chứng rằng nó đã được vẽ bởi "Người da đỏ tên là Marcos". Điều này đã có từ trước khi Dòng Đa Minh cho phép người Aztec kính viếng Guadalupe theo lời Tổng Giám mục. Vấn đề đã chấm dứt khi các tu sĩ dòng Phanxicô bị tước mất quyền trông coi Đền thờ và khung hình tilma được trưng bày trong một Nhà thờ lớn hơn.

- Một tài liệu đầu tiên diễn giải chi tiết hơn về hình ảnh và cuộc hiện ra là cuốn Imagen de la Virgen Maria, Madre de Dios de Guadalupe, một cuốn sách chỉ dẫn cách thờ phượng trong cộng đồng người nói tiếng Tây Ban Nha xuất bản năm 1648 bởi Miguel Sanchez, một linh mục giáo phận Mexico City. Một bản văn ngắn dày 36-trang được viết bằng ngôn ngữ Nahuatl có tên là Huei tlamahuiçoltica ("sự kiện trọng đại"), đã được xuất bản vào năm 1649 bởi Luis Lasso de la Vega. Có ý kiến cho rằng tài liệu này có mối quan hệ chặt chẽ với câu chuyện về Đức Trinh nữ của Sánchez. Tài liệu này bao gồm 7 phần. Trong phần Mopohua Nican ("Ở đây nó được kể lại"), thuận lại các cuộc hiện ra và nguồn gốc siêu nhiên của hình ảnh; phần Nican motecpana ("Đây là một tài liệu theo lệnh truyền"), mô tả lại 14 phép lạ của Đức Mẹ Guadalupe, và Nican tlantica ("Ðến đây chấm dứt"), nói về việc tôn kính Đức Mẹ trong xứ Tây Ban Nha Mới

- Tấm vải thô và hình ảnh đã được tiến hành phân tích nhiều lần bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện có. Có ít nhất 4 cuộc khảo sát đã được tiến hành trong khoảng 1751,1952 – 1982. Ba trong số đó đã được xuất bản thành sách.

- Năm 1756, họa sĩ nổi tiếng Miguel Cabrera xuất bản tác phẩm nghiên cứu của mình trong cuốn sách "American Marvel". Bao gồm kết quả phân tích đôi mắt và các khảo sát thông thường khác của ông và 6 họa sĩ khác.

- Năm 1929, Một tài liệu chú dẫn về hình ảnh chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức Trinh Nữ được công bố bởi nhà nhiếp ảnh Alfonso Marcue. Năm 1951, Carlos Salinas tiến hành xét nghiệm bức tượng ảnh và đưa ra hình ảnh một chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức trinh Nữ. Năm 1956, Tiến sĩ Torroela-Bueno, một bác sĩ về nhãn khoa, xét nghiệm con mắt của Ðức Trinh Nữ trong bức ảnh.

- Năm 1958, Tiến sĩ Rafael Torija-Lavoignet cho xuất bản tác phẩm nghiên cứu của ông, cuốn Purkinje-Sanson, được trình bày để nói về bức tượng ảnh Ðức Bà Guadalupe. Năm 1962, Tiến sĩ Charles Wahig, O.D. tuyên bố sự khám phá của ông về hình ảnh phản chiếu trong mắt của Ðức Trinh Nữ khi nghiên cứu bức tượng ảnh với độ phóng lớn lên gấp 25 lần. Năm 1975, người ta đã cho gỡ khung kính ra để Tiến sĩ Enrique Grave, một bác sĩ nhãn khoa khác, có thể nghiên cứu kỹ hơn về bức vẽ.

- Năm 1979, Tiến sĩ sinh lý học và côn trùng học USDA, Philip Serna Callahan đã chụp ra 40 bức hình của bức ảnh bằng tia hồng ngoại tuyến. Các bức ảnh và phát hiện của ông đã được xuất bản thành sách vào năm 1981. Trong tác phẩm này, kết luận rằng bức vẽ nguyên thủy không có bản vẽ dưới, không có bản phác thảo hay bất kỳ nét cọ nào.

- Cũng trong năm này, Tiến sĩ, bác sĩ nhãn khoa Jose Aste-Tonsmann dùng kỹ thuật phân tích sophisticate và nghệ thuật nhiếp ảnh digital để lấy ảnh cả hai mắt đã tuyên bố đã tìm thấy có ít nhất bốn hình ảnh của con người hiện ra trong cả hai mắt của Ðức Trinh Nữ. Khi phóng đại hình ảnh con mắt lên gấp 2500 lần, khẳng định sự có mặt của một nhóm người gồm 1 người đàn ông, người đàn bà và nhóm trẻ em. Tất cả là 14 người được lưu lại trong đồng tử của con mắt tương tự như bản chụp con mắt bình thường khi xảy ra "phép lạ".

- Năm 2002, José Antonio Flores Gómez, một nhà phục chế mỹ thuật, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Proceso Mexico đã đưa ra một số vấn đề kỹ thuật của mảnh vải mà ông đã tiến hành nghiên cứu trong các năm 1947 và 1973. Bức vẽ chưa từng được sơn phủ.

- Cuốn "Proceso" cũng được xuất bản vào năm 2002 ghi lại cuộc phỏng vấn với José Sol Rosales, trước đây là giám đốc Trung tâm Bảo tồn và Thống kê cổ vật nhân tạo (Patrimonio Artístico Mueble) của Viện Mỹ thuật (Inba) tại thành phố Mexico. Cuộc phỏng vấn này được trích dẫn từ một báo cáo mà Rosales đã viết vào năm 1982 trình bày những phát hiện của ông khi thực hiện quá trình kiểm tra tấm vải bằng ánh sáng tia cực tím - ở độ phóng đại thấp – dưới kính hiển vi âm thanh stereo, loại vẫn được sử dụng cho phẫu thuật để tạo nên không gian ba chiều của mẫu vật. Trong tác phẩm này đã khẳng định màu sắc và độ sáng của bức vẽ rất đặc biệt.

- Trong gần 500 năm tồn tại kể từ khi "phép lạ" xảy ra, tấm vải vẫn tồn tại mà không bị mục nát. Trong khi một bản sao được làm trên chất liệu tương tự chỉ giữ được khoảng 15 năm. Năm 1971, sự cố tràn dung dịch axit amoniac lên phần trên và bên phải bức vẽ. Mặc dù không được sửa chữa nó đã tự phục hồi như cũ. Năm 1921, một trái bom đã nổ ngay dưới chân bức vẽ khiến nhiều đồ vật bị phá hủy nhưng bức vẽ lại không bị hư hại gì. Các ngôi sao xuất hiện trên tà áo Đức Maria trùng với bản đồ sao xuất hiện trên bầu trời Mêxicô hôm xảy ra phép lạ.

- Nhiều trang web Công giáo dẫn chứng (mặc dù không dẫn nguồn) vào năm 1936, Friz Hahn, giáo sư ở Mexico, lấy hai sợi chỉ từ tấm vải gửi cho Tiến sĩ Richard Kuhn, Khoa trưởng Phân khoa Hóa học Ðại Học Kaiser Wilhelm, sau khi nghiên cứu cùng với các giáo sư của phân khoa đã đi đến kết luận là màu sắc của các sợi chỉ không nằm trong danh sách những màu sắc mà họ đã nghiên cứu và hiểu biết

- Năm 1555, trong một buổi họp Hội Ðồng, Tổng Giám mục thứ hai của Mexicô, Alonso de Montufar đã hoàn thành hồ sơ gián tiếp công nhận sự lạ Ðức Mẹ hiện ra. Liền năm sau đó, ông cho xây dựng thánh đường tôn kính Đức Mẹ tại đây và hoàn thành vào năm 1567.

- Ngày 25 tháng 5 năm 1754,Giáo hoàng Biển Đức XIVchấp thuận Đức Mẹ Guadalupe là Thánh Quan Thầy của Tân Tây Ban Nha và cho phép cử hành lễ kính vào ngày 12 Tháng 12.

- Năm 1910, Giáo hoàng Piô Xcông bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh. Năm 1935, Piô XI đặt Ðức Trinh Nữ Guadalupe làm quan thầy của Philippines. Năm 1945, Piô XII tuyên bố rằng Ðức Trinh Nữ Guadalupe là "Nữ hoàng của Mixicô và của toàn lãnh thổ Mỹ Châu" và nhấn mạnh: Tượng ảnh Ðức Mẹ đã được vẽ lại "qua ngòi bút linh ứng chứ không phải bởi thế giới này". Năm 1946, ông tuyên bố Ðức Bà Guadalupe là quan thầy của Mỹ Châu.

- Năm 1961, Giáo hoàng Gioan XXIIIcầu nguyện cùng Ðức Bà Guadalupe là Quan Thầy của Mỹ Châu. Ông diễn tả Ðức Bà Guadalupe là người Mẹ và là người Thầy Ðức Tin của tất cả người dân châu Mỹ. Năm 1966, Phaolô VI gửi tới Ðền Thánh Ðức Bà Guadalupe một Bông Hoa Hồng bằng vàng. Năm 1979, Gioan Phaolô II gọi Ðức Bà Guadalupe là "Ngôi Sao dẫn đường Truyền giáo", ngài quỳ trước Tượng Đức Mẹ, cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ và gọi Ðức Mẹ là Mẹ của Mỹ Châu.

- Ngày 12 tháng 12 là ngày lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ theo quy định cho tất cả các địa phận ở Hoa Kỳ vào năm 1988. Vào năm 1999, Gioan Phaolô II, trong chuyến viếng thăm Ðền Thánh lần thứ 3, công bố ngày 12 tháng 12 là ngày Lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ cho cả toàn châu Mỹ.

 
 
 
Ảnh Đức Mẹ ở đồi Tepeyac, với nét mặt dịu hiền và thanh thản, được in trên tấm áo choàng của thánh Juan Diego, là "Đức Maria trọn đời đồng trình, Mẹ thật của Thiên Chúa, Đấng mà Mẹ luôn phụng sự". Bức ảnh ấy trình bày "người phụ nữ mặc áo mặt trời, với vầng trăng dưới chân, và một triều thiên 12 ngôi sao trên đầu và phụ nữ ấy đang có thai" (Kh 12,1-2) và chỉ cho các thổ dân và người lai thấy sự hiện diện của Đấng Cứu Thế. Mẹ luôn dẫn chúng ta đến cùng Chúa, Con của Mẹ, qua đó ta thấy biểu lộ nền tảng của phẩm giá của mọi người, như một tình yêu thương mạnh mẽ hơn các quyền lực của sự ác và sự chết, và đồng thời cũng là nguồn vui mừng, lòng tín thác con thảo, an ủi và hy vọng.
 
Hàng năm có khoảng 20 triệu người đến hành hương tại Đền thờ. Và Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe đã trở thành nơi hành hương của Kitô Giáo có đông người nhất trên thế giới đến kính viếng.
 
Theo tập tục của giáo dân Mexico là khi họ đến kính viếng Đức Mẹ Guadalupe, họ thường đem theo bó hoa hồng vì khi Đức Mẹ hiện ra với thánh Juan Diego, Mẹ đã cho hoa hồng rơi trên chỗ thánh nhân quỳ. Do vậy, trong ngày lễ mừng kính Đức Mẹ, tại các nhà thờ của người Mexico người ta thấy giáo dân đem tới một rừng hoa hồng đặt chung quanh nơi có hình Đức Mẹ Guadalupe.
 
 
Bài: Sưu tầm & Biên tập
Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe
Đồi Tepeyac, Thành phố México, Mexico.

Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe – Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe (Basilica of Our Lady of Guadalupe (Tây Ban Nha: Basílica de Nuestra Señora de Guadalupe) trên đồi Tepeyac, nằm ở phía bắc của Mexico City.

 

 

Theo dòng lịch sử, vào năm 1531, Đức Mẹ hiện ra cho một giáo dân da đỏ – Juan Diego, và tỏ ước muốn xây một nhà nguyện kính Đức Mẹ. Nhà nguyện đầu tiên được xây trên đồi Tepeyac nơi Đức Mẹ ra ngày nay gọi là Nhà nguyện Cerrito.

Một thánh đường lớn hơn được xây dựng dưới chân đồi để đáp ứng nhu cầu cho số người hành hương đông đảo ngày càng tăng. Thánh đường này sau gần 200 năm xây cất, hoàn tất năm 1709 nhưng sau đó nền móng bị lún do cấu tạo địa chất. Do đó người ta đã xây ngôi thánh đường hiện nay và trở thành trung tâm hành hương số 1 của châu Mỹ, số 2 của thế giới, sau Đền Thánh Phêrô ở Vatican.

 

Thánh đường năm 1928

 

Riêng ngôi Thánh Đường mới mỗi ngày có thánh lễ từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối tại bàn thờ chính, phía trên có treo bức ảnh Đức Mẹ Guadalupe. Với thiết kế vòng tròn có đường kính 100 mét, Thánh Đường này có chổ ngồi cho 10 ngàn người. Khi cần thiết, có thể chứa đến 50 ngàn người. Bất kỳ ở nơi nào trong phạm vi nhà thờ, mọi người đều nhìn thấy ảnh Đức Mẹ treo phía trên bàn thờ chính

Ở tầng trên có 9 bàn thờ phụ, có thể dâng lễ riêng biệt hay cùng đồng tế với bàn thờ chính. Trên bàn thờ lúc nào cũng có rất nhiều hoa tươi được các nhân viên phụng vụ thay chăm sóc

Chung quanh Thánh Đường có tất cả 7 cửa tượng trưng cho 7 cổng được diễn tả cảnh thành thánh Giêrusalem trên Trời trong Tân Ước. Bên ngoài lúc nào cũng có du khách hay người hành hương đến từ các nơi trong đất nước Mexico hay từ các quốc gia khác.

 

 

Từ bên ngoài, Đền thờ trông giống như một túp lều tròn trong nơi sa mạc, để kính nhớ lều tạm ông Môsê dựng dưới chân núi Sinai, và được bao phủ bằng những miếng đồng xanh đậm (theo màu áo Đức Trinh nữ). Bên trong nhà thờ được bao phủ bằng gỗ thông kỵ hỏa do Giáo Hội Công Giáo Canada tặng gồm 6,000 mét vuông, nền nhà được lát bằng đá cẩm thạch Mexico và trong cây cột trung tâm, bao phủ bằng những miếng ván gỗ tùng được che trong những tấm lá vàng, có để một mảnh áo của Juan Diego với hình Đức Bà.

 

 

 

Đoạn đường lên đến đỉnh đồi Tepeyac là các bậc thang rộng rãi tấp nập người qua lại. Có người đi lên những bậc thang này bằng đầu gối. Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe cũng là đền thờ quốc gia của Mexico và cũng là một trong những biểu tượng của đất nước này. Để có thể chiêm nghiệm được phép lạ Đức Mẹ đã ban cho con người và vùng đất này, dưới đây là những tài liệu và nhân chứng nói về sự kiện này.

 

 

Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha), nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng. Nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với Giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh.

 

 

Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng 12 đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico. Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình. Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của Giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải.

Tấm hình này hiện nay vẫn còn được trưng bày tại Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, một trong những điểm hành hương thu hút nhiều người nhất trong thế giới Công giáo. Hình ảnh này cũng phổ biến trong văn hóa Mê xi cô với tên gọi: Nữ Vương Mexico. Năm 1910, Giáo hoàng Piô XI công bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh và sau đó của Philippin vào năm 1935. Năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố Đức Maria là Bổn mạng của toàn châu Mỹ, Nữ vương châu Mỹ La Tinh, và người bảo vệ cho những trẻ em không được sinh ra.

 

 

Trong tài liệu đầu tiên viết về cuộc hiện ra, cuốn Mopohua Nican, viết bằng ngôn ngữ Nahuatl vào khoảng năm 1556, Đức Maria nói với Juan Bernardino, chú của Juan Diego, rằng hình ảnh trên tấm áo choàng Tilma được gọi bằng cái tên: "Đức Trinh Nữ hoàn hảo, Thánh Maria Guadalupe".

Tuy nhiên, giữa các học giả hiện nay chưa đồng thuận về tên "Guadalupe" được gán cho hình ảnh này. Các ý kiến khác nhau có thể được nhóm lại thành hai quan điểm chính. Quan điểm đầu tiên cho rằng đã có sự hiểu lầm giữa tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nahuatl. Quan điểm thứ hai cho rằng tên gọi Tây Ban Nha "Guadalupe", có chung nguồn gốc với tên gọi Đức Maria Guadalupe vùng Extremadura.

Quan điểm đầu tiên về nguồn gốc Nahuatl của tên gọi này là của Luis Becerra Tanco. Vào năm 1675, trong cuốn Felicidad de Mexico của mình, Becerra Tanco đã đưa ra ý kiến: Juan Bernardino và Juan Diego sẽ không thể hiểu được tên Guadalupe vì hai phụ âm "d" và "g" không tồn tại trong ngôn ngữ Nahuatl. Ông đã đưa ra hai tên bằng tiếng Nahuatl được phát âm giống như "Guadalupe " là: Tecuatlanopeuh [tek ʷ at͡ɬa'nopeʍ"], "người được sinh ra từ tảng đá", và Tecuantlaxopeuh tek ʷ ant͡ɬa'ʃopeʍ, "người xua đuổi những kẻ dữ khỏi chúng ta".

Nó cũng đưa ra gợi ý rằng cái tên Tây Ban Nha này là sự thuật lại một thuật ngữ trong tiếng Nahuatl, Coātlaxopeuh [koa ː t͡ɬa'ʃopeʍ], có nghĩa là "người đập đầu con rắn" và nó có thể được đề cập đến thần rắn lông vũ Quetzacoatl.

 

 

Những người ủng hộ nguồn gốc tiếng Tây Ban Nha của tên gọi đưa ra lập luận rằng:

- Juan Diego và Juan Bernardino đã quen với tiếng Tây Ban Nha có hai phụ âm "g" và "d" kể từ khi lãnh nhận phép rửa tội mà trong tên của họ có cùng những phụ âm này

- Không có một tài liệu nào đưa ra tên gọi khác của Đức Trinh Nữ (ngoài cái tên Guadalupe) trong khoảng thời gian gần 144 năm giữa lần hiện ra vào năm 1531 và khi Becerra Tanco viết cuốn sách của mình năm 1675, cho thấy tên Tây Ban Nha "Guadalupe" là chính xác.

 

 

- Các tài liệu của các tác giả người Tây Ban Nha hiện nay và của dòng thánh Phanxicô chứng tỏ rằng việc thay một cái tên Tây Ban Nha cho một cái tên bản địa, chẳng hạn như "Tepeaca" hoặc "Tepeaquilla" sẽ không có nghĩa nếu dùng cho 1 tên có nguồn gốc Nahuatl. Điều này cho thấy tên "Guadalupe" có nguồn gốc Tây Ban Nha là đúng.

- Sau cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha kéo dài từ năm 1519-21, một đền thờ nữ thần Tonantzin tại đồi Tepeyac bên ngoài Thành phố Mexico đã bị phá hủy và một nhà nguyện dành riêng cho Đức Trinh Nữ được xây dựng nay tại đó. Những người da đỏ mới cải đạo theo Công giáo ở xa vẫn tiếp tục đến đó hành lễ và thực hiện các nghi thức thờ phượng của mình. Tuy nhiên không chắc chắn họ có gọi tên Maria giống như tên nữ thần Tonantzin hay không.

- Một ghi chép đầu tiên nhắc đến sự tồn tại của bức vẽ là vào năm 1556, khi Tổng Giám mục Alonso de Montufar, dòng Ða Minh, giảng một bài khen ngợi lòng sùng kính Đức Mẹ Guadalupe, bày tỏ sự kính trọng với bức tranh được vẽ trong nhà nguyện tại Tepeyac, nơi phép lạ mới xảy ra. Vài ngày sau đó ông nhận được văn thư trả lời của Francisco de Bustamante, người đứng đầu các tu sĩ dòng Phanxicô và là người trông coi nhà nguyện Tepeyac, ông này bày tỏ thái độ không đồng tình trước vị Phó vương về việc Tổng Giám mục cổ vũ người dân bản địa mê tín dị đoan khi tôn thờ một bức tranh được vẽ bởi một họa sĩ người bản địa tên là Marcos Cipac de Aquino:

- Lòng sùng kính đã được cổ vũ trong một nhà nguyện dành riêng cho Đức Mẹ, được gọi là Guadalupe, trong thành phố này là rất có hại cho người dân địa phương, bởi vì nó làm cho họ tin rằng hình ảnh này được vẽ bởi người da đỏ Marcos là trong một trường hợp thần kỳ.

- Ngày hôm sau, Tổng Giám mục Montufar mở một cuộc điều tra. Các tu sĩ Phanxicô nhắc lại tuyên bố của mình rằng hình ảnh khuyến khích thờ phượng ngẫu tượng và mê tín dị đoan, và làm chứng rằng nó đã được vẽ bởi "Người da đỏ tên là Marcos". Điều này đã có từ trước khi Dòng Đa Minh cho phép người Aztec kính viếng Guadalupe theo lời Tổng Giám mục. Vấn đề đã chấm dứt khi các tu sĩ dòng Phanxicô bị tước mất quyền trông coi Đền thờ và khung hình tilma được trưng bày trong một Nhà thờ lớn hơn.

- Một tài liệu đầu tiên diễn giải chi tiết hơn về hình ảnh và cuộc hiện ra là cuốn Imagen de la Virgen Maria, Madre de Dios de Guadalupe, một cuốn sách chỉ dẫn cách thờ phượng trong cộng đồng người nói tiếng Tây Ban Nha xuất bản năm 1648 bởi Miguel Sanchez, một linh mục giáo phận Mexico City. Một bản văn ngắn dày 36-trang được viết bằng ngôn ngữ Nahuatl có tên là Huei tlamahuiçoltica ("sự kiện trọng đại"), đã được xuất bản vào năm 1649 bởi Luis Lasso de la Vega. Có ý kiến cho rằng tài liệu này có mối quan hệ chặt chẽ với câu chuyện về Đức Trinh nữ của Sánchez. Tài liệu này bao gồm 7 phần. Trong phần Mopohua Nican ("Ở đây nó được kể lại"), thuận lại các cuộc hiện ra và nguồn gốc siêu nhiên của hình ảnh; phần Nican motecpana ("Đây là một tài liệu theo lệnh truyền"), mô tả lại 14 phép lạ của Đức Mẹ Guadalupe, và Nican tlantica ("Ðến đây chấm dứt"), nói về việc tôn kính Đức Mẹ trong xứ Tây Ban Nha Mới

- Tấm vải thô và hình ảnh đã được tiến hành phân tích nhiều lần bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện có. Có ít nhất 4 cuộc khảo sát đã được tiến hành trong khoảng 1751,1952 – 1982. Ba trong số đó đã được xuất bản thành sách.

- Năm 1756, họa sĩ nổi tiếng Miguel Cabrera xuất bản tác phẩm nghiên cứu của mình trong cuốn sách "American Marvel". Bao gồm kết quả phân tích đôi mắt và các khảo sát thông thường khác của ông và 6 họa sĩ khác.

- Năm 1929, Một tài liệu chú dẫn về hình ảnh chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức Trinh Nữ được công bố bởi nhà nhiếp ảnh Alfonso Marcue. Năm 1951, Carlos Salinas tiến hành xét nghiệm bức tượng ảnh và đưa ra hình ảnh một chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức trinh Nữ. Năm 1956, Tiến sĩ Torroela-Bueno, một bác sĩ về nhãn khoa, xét nghiệm con mắt của Ðức Trinh Nữ trong bức ảnh.

- Năm 1958, Tiến sĩ Rafael Torija-Lavoignet cho xuất bản tác phẩm nghiên cứu của ông, cuốn Purkinje-Sanson, được trình bày để nói về bức tượng ảnh Ðức Bà Guadalupe. Năm 1962, Tiến sĩ Charles Wahig, O.D. tuyên bố sự khám phá của ông về hình ảnh phản chiếu trong mắt của Ðức Trinh Nữ khi nghiên cứu bức tượng ảnh với độ phóng lớn lên gấp 25 lần. Năm 1975, người ta đã cho gỡ khung kính ra để Tiến sĩ Enrique Grave, một bác sĩ nhãn khoa khác, có thể nghiên cứu kỹ hơn về bức vẽ.

- Năm 1979, Tiến sĩ sinh lý học và côn trùng học USDA, Philip Serna Callahan đã chụp ra 40 bức hình của bức ảnh bằng tia hồng ngoại tuyến. Các bức ảnh và phát hiện của ông đã được xuất bản thành sách vào năm 1981. Trong tác phẩm này, kết luận rằng bức vẽ nguyên thủy không có bản vẽ dưới, không có bản phác thảo hay bất kỳ nét cọ nào.

- Cũng trong năm này, Tiến sĩ, bác sĩ nhãn khoa Jose Aste-Tonsmann dùng kỹ thuật phân tích sophisticate và nghệ thuật nhiếp ảnh digital để lấy ảnh cả hai mắt đã tuyên bố đã tìm thấy có ít nhất bốn hình ảnh của con người hiện ra trong cả hai mắt của Ðức Trinh Nữ. Khi phóng đại hình ảnh con mắt lên gấp 2500 lần, khẳng định sự có mặt của một nhóm người gồm 1 người đàn ông, người đàn bà và nhóm trẻ em. Tất cả là 14 người được lưu lại trong đồng tử của con mắt tương tự như bản chụp con mắt bình thường khi xảy ra "phép lạ".

- Năm 2002, José Antonio Flores Gómez, một nhà phục chế mỹ thuật, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Proceso Mexico đã đưa ra một số vấn đề kỹ thuật của mảnh vải mà ông đã tiến hành nghiên cứu trong các năm 1947 và 1973. Bức vẽ chưa từng được sơn phủ.

- Cuốn "Proceso" cũng được xuất bản vào năm 2002 ghi lại cuộc phỏng vấn với José Sol Rosales, trước đây là giám đốc Trung tâm Bảo tồn và Thống kê cổ vật nhân tạo (Patrimonio Artístico Mueble) của Viện Mỹ thuật (Inba) tại thành phố Mexico. Cuộc phỏng vấn này được trích dẫn từ một báo cáo mà Rosales đã viết vào năm 1982 trình bày những phát hiện của ông khi thực hiện quá trình kiểm tra tấm vải bằng ánh sáng tia cực tím - ở độ phóng đại thấp – dưới kính hiển vi âm thanh stereo, loại vẫn được sử dụng cho phẫu thuật để tạo nên không gian ba chiều của mẫu vật. Trong tác phẩm này đã khẳng định màu sắc và độ sáng của bức vẽ rất đặc biệt.

- Trong gần 500 năm tồn tại kể từ khi "phép lạ" xảy ra, tấm vải vẫn tồn tại mà không bị mục nát. Trong khi một bản sao được làm trên chất liệu tương tự chỉ giữ được khoảng 15 năm. Năm 1971, sự cố tràn dung dịch axit amoniac lên phần trên và bên phải bức vẽ. Mặc dù không được sửa chữa nó đã tự phục hồi như cũ. Năm 1921, một trái bom đã nổ ngay dưới chân bức vẽ khiến nhiều đồ vật bị phá hủy nhưng bức vẽ lại không bị hư hại gì. Các ngôi sao xuất hiện trên tà áo Đức Maria trùng với bản đồ sao xuất hiện trên bầu trời Mêxicô hôm xảy ra phép lạ.

- Nhiều trang web Công giáo dẫn chứng (mặc dù không dẫn nguồn) vào năm 1936, Friz Hahn, giáo sư ở Mexico, lấy hai sợi chỉ từ tấm vải gửi cho Tiến sĩ Richard Kuhn, Khoa trưởng Phân khoa Hóa học Ðại Học Kaiser Wilhelm, sau khi nghiên cứu cùng với các giáo sư của phân khoa đã đi đến kết luận là màu sắc của các sợi chỉ không nằm trong danh sách những màu sắc mà họ đã nghiên cứu và hiểu biết

- Năm 1555, trong một buổi họp Hội Ðồng, Tổng Giám mục thứ hai của Mexicô, Alonso de Montufar đã hoàn thành hồ sơ gián tiếp công nhận sự lạ Ðức Mẹ hiện ra. Liền năm sau đó, ông cho xây dựng thánh đường tôn kính Đức Mẹ tại đây và hoàn thành vào năm 1567.

- Ngày 25 tháng 5 năm 1754,Giáo hoàng Biển Đức XIVchấp thuận Đức Mẹ Guadalupe là Thánh Quan Thầy của Tân Tây Ban Nha và cho phép cử hành lễ kính vào ngày 12 Tháng 12.

- Năm 1910, Giáo hoàng Piô Xcông bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh. Năm 1935, Piô XI đặt Ðức Trinh Nữ Guadalupe làm quan thầy của Philippines. Năm 1945, Piô XII tuyên bố rằng Ðức Trinh Nữ Guadalupe là "Nữ hoàng của Mixicô và của toàn lãnh thổ Mỹ Châu" và nhấn mạnh: Tượng ảnh Ðức Mẹ đã được vẽ lại "qua ngòi bút linh ứng chứ không phải bởi thế giới này". Năm 1946, ông tuyên bố Ðức Bà Guadalupe là quan thầy của Mỹ Châu.

- Năm 1961, Giáo hoàng Gioan XXIIIcầu nguyện cùng Ðức Bà Guadalupe là Quan Thầy của Mỹ Châu. Ông diễn tả Ðức Bà Guadalupe là người Mẹ và là người Thầy Ðức Tin của tất cả người dân châu Mỹ. Năm 1966, Phaolô VI gửi tới Ðền Thánh Ðức Bà Guadalupe một Bông Hoa Hồng bằng vàng. Năm 1979, Gioan Phaolô II gọi Ðức Bà Guadalupe là "Ngôi Sao dẫn đường Truyền giáo", ngài quỳ trước Tượng Đức Mẹ, cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ và gọi Ðức Mẹ là Mẹ của Mỹ Châu.

- Ngày 12 tháng 12 là ngày lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ theo quy định cho tất cả các địa phận ở Hoa Kỳ vào năm 1988. Vào năm 1999, Gioan Phaolô II, trong chuyến viếng thăm Ðền Thánh lần thứ 3, công bố ngày 12 tháng 12 là ngày Lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ cho cả toàn châu Mỹ.

 
 
 
Ảnh Đức Mẹ ở đồi Tepeyac, với nét mặt dịu hiền và thanh thản, được in trên tấm áo choàng của thánh Juan Diego, là "Đức Maria trọn đời đồng trình, Mẹ thật của Thiên Chúa, Đấng mà Mẹ luôn phụng sự". Bức ảnh ấy trình bày "người phụ nữ mặc áo mặt trời, với vầng trăng dưới chân, và một triều thiên 12 ngôi sao trên đầu và phụ nữ ấy đang có thai" (Kh 12,1-2) và chỉ cho các thổ dân và người lai thấy sự hiện diện của Đấng Cứu Thế. Mẹ luôn dẫn chúng ta đến cùng Chúa, Con của Mẹ, qua đó ta thấy biểu lộ nền tảng của phẩm giá của mọi người, như một tình yêu thương mạnh mẽ hơn các quyền lực của sự ác và sự chết, và đồng thời cũng là nguồn vui mừng, lòng tín thác con thảo, an ủi và hy vọng.
 
Hàng năm có khoảng 20 triệu người đến hành hương tại Đền thờ. Và Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe đã trở thành nơi hành hương của Kitô Giáo có đông người nhất trên thế giới đến kính viếng.
 
Theo tập tục của giáo dân Mexico là khi họ đến kính viếng Đức Mẹ Guadalupe, họ thường đem theo bó hoa hồng vì khi Đức Mẹ hiện ra với thánh Juan Diego, Mẹ đã cho hoa hồng rơi trên chỗ thánh nhân quỳ. Do vậy, trong ngày lễ mừng kính Đức Mẹ, tại các nhà thờ của người Mexico người ta thấy giáo dân đem tới một rừng hoa hồng đặt chung quanh nơi có hình Đức Mẹ Guadalupe.
 
 
Bài: Sưu tầm & Biên tập